Thứ Bảy, 24 tháng 9, 2016

Én Liệng Truông Mây Tập 2 - Trường Thiên Tiểu Thuyết Võ Hiệp Lịch Sử Việt Nam

Hồi thứ mười ba

Việt nữ kiếm trở về cùng người Đại Việt
Hận Liên Trì, hào kiệt ứa lệ đề thơ

*


Hồng Liệt đứng sau lưng Văn Hiến từ nãy giờ, lên tiếng ngâm:
Mới hay oan trái chữ tình
Đôi khi mình tự buộc mình vào trong
Có khi cũng bởi hóa công
Đẩy cho trần thế vào vòng khổ đau.

Văn Hiến không quay lại nói:
- Ngươi nói hay lắm! Có khi mình tự buộc mình, mà cũng có khi do con tạo trớ trêu buộc người vào đó.
- Coi bộ nàng đã nặng tình. Còn ngươi?
- Tình càng nặng chỉ càng thêm khổ đau mà thôi. Ngươi có biết gia thế của nàng thế nào không?
Hồng Liệt đến ngồi trước mũi thuyền cạnh Văn Hiến:
- Nói nghe thử.
- Bà ngoại của nàng là con gái của Ngô Tam Quế và Trần Viên Viên. Cha nàng lại chính là giọt máu của Sấm Vương Lý Tự Thành sót lại. Cuộc tao ngộ của họ thật là ly kỳ và đầy nước mắt.
- Thảo nào mọi người gọi nàng là công chúa.
Tiếng cười của Văn Hiến pha chút mỉa mai, cay đắng:
- Còn ta thì sao? Ha ha... Ngươi lại đi hỏi ta có nặng tình không?
- Tình yêu là sự rung động của hai trái tim chứ đâu phải của hai dòng họ, cũng chẳng phải của giàu nghèo, sang hèn.
- Đó chỉ là lý tưởng, hay đúng hơn là hoang tưởng. Trong thực tế đời thường lại hoàn toàn khác. Hoang tưởng dễ dẫn con người ta đi đến vực thẳm của khổ đau.
- Nàng có hỏi ngươi bao giờ trở lại không?
- Có. Ta thật hổ thẹn khi phải nối dối với nàng. Bao nhiêu đó thôi cũng đủ khiến ta thấy mình hèn mọn, nhỏ nhoi trước nàng.
- Ngươi cũng vì việc lớn mà thôi.
- Không thể dùng nó để biện minh được. Đó cũng chính là đầu mối của sợi dây oan nghiệt. Tốt hơn hết là phải tránh xa ra, ngay từ bây giờ.
- Lúc ngươi và nàng đấu nhau ở Hội An ta có hơi ngờ ngợ rồi. Cho đến khi ngươi cứu nàng ở trong động đá ở vịnh Vĩnh Hy thì ta cảm giác đây chính là chữ duyên mà người ta thường nói.
- Chỉ e nó là nghiệt duyên.
- Thì đành ôm hận thôi. Mà có khi là lương duyên, nào ai biết trước được?
Văn Hiến bỗng đứng lên.
- Gần đến Nhà Bè rồi, chúng ta vào nói với chú Dụng đi.
Cả hai bèn vào tách riêng Hữu Dụng ra nói chuyện. Văn Hiến nói rõ ý định của mình. Hữu Dụng hơi ngạc nhiên nhưng ông nói:
- Làm như thế hay đấy! Chúc hai cậu may mắn. Nhưng sao phải xuống đến Nhà Bè mới lên bộ?
Hồng Liệt đáp:
- Sư huynh cháu có một cơ sở lớn ở xã Minh Hương vùng Gia Định. Bọn cháu muốn dùng ngựa đi một vòng vùng đất Phiên Trấn cho biết.
Văn Hiến tiếp lời:
- Cháu có phong thư, chú nhờ ai đó mang ra Trần gia ở Liên Trì, gần chợ Trà Câu, Quảng Ngãi trao cho anh Đại Bằng, hoặc giao cho người nhà Trần gia nhờ họ chuyển cho anh ấy giúp. Lúc chú trở vô, cháu muốn biết tin của bọn họ ở ngoài đó thế nào, chú lưu tâm hộ cháu nhé.
Hữu Dụng gật đầu:
- Được, tôi sẽ sai Đỗ Trọng mang đi.
- Cảm ơn chú! Khi nào chú trở vào, bọn cháu sẽ ghé thăm.
Hữu Dụng ra dấu cho thuyền rẽ vào nhánh sông nhỏ xuống xã Minh Hương. Hồng Liệt và Văn Hiến lên bờ tìm đến cơ sở Thần Quyền Môn lấy hai con ngựa tốt, họ đi một vòng lên tận Bình Dương rồi trở ngược về bến Bửu Long lúc trời đã tối. Cả hai đến Long Thiền tự, được nhà sư trẻ Từ Huệ tiếp đón rồi đưa vào hậu đường. Hai người làm lễ chào sư Phật Chiếu và nho hiệp. Văn Hiến lo lắng hỏi:
- Sư phụ bị thương hôm đó đến nay đã đỡ chưa? Vết thương có độc phải không? Mấy hôm nay con lo quá.
Nho hiệp mỉm cười nói:
- Thầy đã không sao. Thiên Ưng trảo quả nhiên lợi hại. Không ngờ hắn còn luyện những móng tay mình với chất kịch độc nữa. Thầy đã uống linh đan ngừa trước, lại phải mất hai ngày đêm vận khí trục độc nếu không thì cánh tay trái e đã tàn phế rồi.
Sư Phật Chiếu nói:
- A Di Đà Phật. Ngả Phật từ bi. Tên Thiên Ưng lão quỉ đó bàn tay phải bị xoi thủng ngay huyệt lao cung, tay trái lại bị Như Lai chỉ điểm trúng huyệt thái uyên, đời này coi như hắn không còn có thể giết ai được nữa rồi. Đó cũng là quả báo cho ác nghiệp của hắn.
Nho hiệp nói với Văn Hiến và Hồng Liệt:
- Tên Lý Văn Quang này thế lực rất lớn. Cao thủ dưới tay hắn nhiều vô kể, đa phần là bọn ác đạo ở Trung Quốc. Hiến nhi và hiền điệt cùng Thần Quyền Môn muốn chống lại hắn không phải là chuyện dễ. Trước tiên phải luyện tập thêm võ công, thứ đến phải tìm thêm người trợ thủ. Nếu đụng việc lớn hơn nữa thì phải nhờ đến binh lực của Trấn Biên. Ta thấy Cẩn Thành hầu là người nghĩa khí và đởm lược, các con nên bàn bạc với ông ta. Hiền điệt đã bàn thảo cùng sư huynh chưa?
Hồng Liệt đáp:
- Dạ rồi!
Chàng quay sang chắp tay vái sư Phật Chiếu:
- Xin thứ cho đệ tử vì đã có sư môn nên không thể bái thiền sư làm thầy. Đệ tử nhất tâm thụ nghệ, nguyện đem hết sức mình phục vụ cho đồng bào và đất nước để khỏi phụ lòng kỳ vọng của thiền sư.
Phật Chiếu nở nụ cười từ hòa:
- Lành thay, lành thay! Ta cũng sắp đến ngày về hầu dưới chân Phật tổ, muốn để lại cho đời một chút công quả. Vốn biết con có tâm căn tốt nên việc truyền thụ công phu hoàn toàn do ta tự nguyện, con không phải áy náy.
Hồng Liệt quì xuống lạy Phật Chiếu một lạy nói:
- Xin nhận của con một lạy này để đáp tạ thâm ân!
Phật Chiếu nhận một lạy xong đỡ Hồng Liệt đứng lên:
- Được rồi, các con đi nghỉ đi. Ngày mai chúng ta sẽ bắt đầu.
Hôm sau, Phật Chiếu đưa hai người vào hang động kín đáo và yên tịnh sâu trong núi. Trong động thạch nhũ treo từng chùm lóng lánh, ánh dương quang bên ngoài hắt vào làm cho chúng tỏa sáng như những chùm minh châu trông đẹp vô cùng. Phật Chiếu thiền sư nói:
- Hai con ở lại đây mà luyện công, mọi nhu cầu ăn uống ta sẽ bảo Từ Huệ bảy ngày mang vào một lần. Có gì trở ngại trong lúc tập luyện thì cho ta hay. Môn nội công mà ta sắp truyền cho các con có tên Tiên thiên vô cực huyền công. Đây là sự kết hợp giữa huyền môn công phu của nho hiệp và thiền công của Phật môn du nhập từ Ấn Độ sang. Giờ các con chú ý nghe mà luyện tập.
Thiền sư bắt đầu giảng giải:
- Trước hết phải ngồi tọa công bằng tư thế kiết già, gạt bỏ mọi tạp niệm, tập trung ý chí. Khi tạp niệm không còn, vừa hít vào vừa dùng ý để thu hút linh khí trời đất từ bên ngoài xuyên qua huyệt thần đình, theo âm kinh của nhâm mạch qua huyệt đản trung rồi đưa xuống đan điền. Tụ khí ở đan điền trong một thời gian ngắn rồi thở ra từ từ, đưa chân khí tản mát khắp các huyệt đạo ở châu thân. Đó là bước đầu luyện khí khai thông nhâm mạch. Luyện như thế liên tục cho đến khi các con cảm thấy lúc thở ra, chân khí lưu thông khắp châu thân một cách thông suốt thì luyện sang giai đoạn hai. Giai đoạn hai là giai đoạn luân chuyển vòng tiểu chu thiên, luyện nội công. Ở giai đoạn này, khi khí tụ đan điền rồi thì ngưng hô hấp, dùng ý chuyển khí qua các huyệt trường cường, hội âm, theo dương kinh của đốc mạch lên huyệt mệnh môn, đến huyệt đại chùy, lên huyệt bách hội rồi trở lại thần đình. Đến đây là hết một vòng tiểu chu thiên. Luyện vận hành khí theo vòng tiểu chu thiên càng nhiều, chân khí trong người càng thông suốt, giúp đả thông mọi bế tắc trong hai hệ kinh mạch nhâm và đốc, đồng thời giúp cho hai khí âm, dương trong cơ thể và kỳ kinh bát mạch giao thông, hòa hợp với nhau. Khi khí đã lưu thông một vòng tiểu chu thiên được thuần thục các con sẽ thấy mỗi lần đề khí, khí sẽ tụ ở đan điền rất sung mãn. Từ đó, nội lực sẽ tăng lên rất nhanh. Đến đây các con đã qua được giai đoạn khai thông nhâm đốc nhị mạch. Sau đó sẽ tập luyện chuyển chân khí khắp châu thân theo vòng đại chu thiên để bước vào giai đoạn thứ ba là phát triển ngoại công. Nhờ khí lực sung mãn ở đan điền, dùng ý đưa chân khí đi qua các đại tiểu huyệt khắp châu thân theo các hệ túc thái dương kinh, túc thiếu dương kinh... Thực hiện vòng đại chu thiên này thông suốt sẽ đả thông được sinh tử huyền quan, chân khí đầy thân thể, thu phát tự nhiên theo ý muốn. Nên nhớ rằng, ý đâu thì thần và khí ở đó. Việc đả thông được sinh tử huyền quan ở ngọc chẩm huyệt là mức thành tựu tối cần của võ học để trở thành cao thủ thượng thừa. Đạt được cảnh giới Tam hoa tụ đính, Ngũ khí triều nguyên là bước tối hậu của một cao thủ tuyệt đỉnh, nhưng điều này hoàn toàn tùy thuộc vào căn cốt bẩm sinh của từng cao thủ, không thể miễn cưỡng được. Trăm năm chỉ có một, nếu miễn cưỡng sẽ đưa đến hậu quả thảm khốc là tẩu hỏa nhập ma hay mất mạng. Vì nguyên lý cơ bản của sự tu luyện là phải để nội khí vận hành theo luật tự nhiên của cấu tạo cơ thể, hòa hợp với sự vận hành tự nhiên của hai khí âm dương trong trời đất nên không thể cưỡng cầu. Hai con hiểu thông suốt cả ba giai đoạn này không?
Văn Hiến và Hồng Liệt đồng thanh đáp:
- Dạ, chúng con đã thông suốt!
- Tốt lắm! Hai con đã có căn bản võ học nên việc thực hiện hai giai đoạn đầu sẽ không khó khăn lắm. Từ hôm nay cứ bắt đầu tập luyện cho thật thông suốt rồi hãy sang giai đoạn thứ ba. Giai đoạn thứ tư ta sẽ hướng dẫn sau.
Văn Hiến hỏi:
- Tư thế ngồi kiết già có tác dụng thế nào trong việc đả thông hai mạch nhâm đốc và sinh tử huyền quan, thưa sư bá?
- Luyện công theo lối đả tọa mà các con đã theo từ trước là cách thức thông thường của người học võ. Nhưng luyện công kết hợp với tư thế ngồi kiết già sẽ giúp người luyện công cùng lúc đả thông kỳ kinh bát mạch và khai mở bảy Luân Xa dọc theo cột sống để phát triển thêm năng lượng, bổ sung thêm khí lực cho cơ thể. Đây chính là giai đoạn thứ tư.
Hồng Liệt hỏi:
- Luân Xa là gì, thưa sư bá?
- Đó là tên gọi của bảy vùng năng lượng nằm tại sáu đại huyệt có gốc từ cột sống và một đại huyệt ở đỉnh đầu, chi phối những chức năng riêng của cơ thể. Tiếng Phạn cổ gọi là “Chakra”, chúng ta gọi là Luân Xa. Nó là những điểm xoáy dùng làm nơi trao đổi năng lượng của cơ thể với năng lượng của vũ trụ. Khai mở Luân Xa nào thì cơ thể sẽ có thể hấp thu năng lượng của vũ trụ và giúp phát triển tốt chức năng của cơ thể thuộc hệ kinh mạch ảnh hưởng bởi Luân Xa đó. Sự khai mở Luân Xa nếu sai lệch sẽ dẫn đến nguy hiểm, dễ bị tẩu hỏa nhập ma, có khi đưa con người vào ma cảnh. Do đó, thế ngồi kiết già vừa giúp tập luyện được tâm tịnh vừa giúp cho nội khí lưu chuyển dễ dàng từ Luân Xa này đến Luân Xa khác.
Sau đó, Phật Chiếu vừa giải thích vừa chỉ rõ cho hai người:
- Luân Xa thứ nhất nằm tại huyệt hội âm, thứ hai tại huyệt trường cường, thứ ba tại huyệt khí hải, thứ tư tại huyệt đản trung, thứ năm tại huyệt đại chùy, thứ sáu tại huyệt ấn đường và thứ bảy là huyệt bách hội. Khai mở hoàn toàn được cả bảy Luân Xa này con người sẽ trở thành bậc đại thánh. Tuy nhiên, điều này rất hiếm, vì bất kỳ người nào cũng có những khiếm khuyết trên cơ thể, cho nên Luân Xa của bộ phận khiếm khuyết đó không thể khai mở hoàn toàn được.
Từ đó, Văn Hiến và Hồng Liệt mỗi người một gian động chu trì tập luyện. Trong khi Hồng Liệt an nhiên tu tập thì Văn Hiến lại bị bao nhiêu tạp niệm quấy rối. Hình bóng của Dung Dung, những giọt nước mắt, chiếc khăn tay và bài thơ cứ lảng vảng trong đầu. Phải mất gần bảy ngày với sự cố gắng ghê gớm chàng mới dẹp bỏ được những tạp niệm mà chuyên tâm tịnh trí tĩnh tọa. Khi đói thì đã có thức ăn do Từ Huệ mang vào, khi khát đã có dòng suối chảy qua lòng động đá cho nên hai người cứ như vậy mà chuyên tâm tập luyện đến quên cả thời gian. Thỉnh thoảng, sư Phật Chiếu ghé lên hỏi thăm thành quả đạt được, chỉ dẫn thêm cách đưa chân khí theo vòng đại chu thiên đến từng kinh mạch nhỏ khắp cơ thể. Trong suốt thời gian đó, mọi liên lạc với bên ngoài đều bị thiền sư cắt đứt để tránh phiền nhiễu đến tâm của hai người.
***

Nhắc lại Hữu Dụng, khi về đến Quy Nhơn ông liền đưa bức thư của Văn Hiến cho Đỗ Trọng đem ra Liên Trì trao lại cho Đại Bằng. Đại Bằng và Kim Hùng đọc thư xong, thấy tình hình tạm ổn nên từ giã Nguyên Hào để trở về Phú Xuân bắt đầu triển khai việc thành lập bang Hành Khất. Về đến Phú Xuân, Đại Bằng tìm gặp Đoàn Phong tại tư gia để báo cho chàng biết mọi việc. Nghe xong, Đoàn Phong mừng rỡ nói:
- Như vậy cũng hay. Tuyết Hoa vừa sanh nở xong, tiểu đệ cũng cần có chút thời gian ở nhà để chăm sóc cho hai mẹ con nàng.
Đại Bằng hân hoan:
- Vậy sao? Mẹ tròn con vuông chứ? Chị nhà sinh cháu trai hay gái?
- Cảm ơn anh, cả hai đều tốt. Nàng sinh cháu trai.
- Chúc mừng anh! Vậy là anh thoát được cái tội “vô hậu vi đại” rồi. Chả bù với tôi, tôi mong hoài một mụn con mà không được. Có thể cho tôi nhìn mặt cháu được không?
- Được chứ! Tôi còn đang muốn nhờ anh xem thử mai này tương lai của cháu sẽ ra sao.
Tuyết Hoa vừa sanh xong chưa tròn tháng, nàng theo chân Đoàn Phong ra phòng khách để chào Đại Bằng. Đoàn Phong bế đứa bé trên tay nói:
- Đây là Tuyết Hoa, mẹ của cháu. Anh Trần Đại Bằng, người bạn mới quen của anh. Còn đây là công tử nhà họ Đoàn và họ Lê của chúng tôi.
Tuyết Hoa dịu dàng nói:
- Muội xin ra mắt Bằng huynh.
Đại Bằng vội cúi chào đáp lễ:
- Xin chào chị! Chị chưa khỏe hẳn không cần phải đa lễ, là bạn bè cả mà. Đâu, để tôi xem công tử nào.
Đoàn Phong trao thằng bé cho Đại Bằng. Quan sát một lúc, Đại Bằng trao con lại cho Đoàn Phong rồi nghiêm giọng nói:
- Đứa bé này ngũ quan đoan chính, tú khí khắp người, là long là phượng trong đời. Nếu gặp thời loạn tất nổi danh hào kiệt nhất phương, vẫy vùng một cõi. Duy với cái nét mỹ nam tử quá đặc biệt này, chỉ e về sau sẽ khốn đốn trong tình trường nhi nữ. Cháu tên gì?
Đoàn Phong trao con lại cho vợ, cả hai không giấu được nét vui mừng:
- Tên cháu là Đoàn Phi. Cảm ơn anh đã thương cháu mà nói như vậy. Vợ chồng tôi sẽ cố gắng dạy dỗ nó nên người hữu dụng.
Tuyết Hoa chào Đại Bằng rồi bế con vào trong. Đại Bằng hỏi:
- Công việc ở chỗ Võ Trụ huynh thế nào rồi?
- Rất tốt! Võ Trụ huynh là người trung thực và liêm chính. Mỏ vàng hứa hẹn một trữ lượng lớn, tình hình đang phát triển theo chiều hướng tốt đẹp.
- Chúa Võ vừa đăng vương đã gặp được chuyện may mắn như thế, đó là điềm lành cho đất nước.
- Mong mọi sự đều tốt lành. Việc ở Trần gia thì sao?
- Trần huynh cho rằng một khi đã lộ diện thì có lánh mặt cũng không được, tránh được một lúc nhưng không tránh được cả đời. Việc gì phải đến sẽ đến.
- Cũng đành vậy thôi. Giờ chỉ còn lưu tâm đến động tịnh của bọn Diệp Sanh Ký.
- Tôi sẽ bắt đầu việc thành lập bang Hành Khất để có thêm người giúp cho những bà con đói rách lang thang bỏ Đàng Ngoài chạy vào đây lánh nạn. Có việc gì cần thiết chúng ta liên lạc với nhau nhé.
- Vâng!
Đại Bằng kiếu từ ra về. Đoàn Phong tiễn bạn về xong vào trong nói với Tuyết Hoa:
- Nàng thấy nhận xét của Đại Bằng giống ta không? Con chúng ta mai sau chắc chắn sẽ là tay hào kiệt trong đời, không như cha nó chạy ngược chạy xuôi mà chẳng nên cơm cháo gì. Có một người vợ tuyệt vời như nàng mà cũng không lo nổi một cuộc sống sung túc, thật chẳng ra gì!
Tuyết Hoa âu yếm nhìn con rồi quay sang chồng nói:
- Chàng là một anh hùng, chỉ vì sinh không đúng thời nên lận đận mà thôi. Giờ đã có Phi nhi, chúng ta coi như không kể đến đời chúng ta, hãy gom hết sức mà đào tạo cho tương lai của nó. Họ Đoàn và họ Lê mai sau nhờ nó mà lưu danh thì chúng ta mãn nguyện rồi.
Đoàn Phong nắm tay vợ mỉm cười nói đùa:
- Hay nàng sinh thêm một thằng cu nữa đi, rồi cho nó mang họ Lê của nàng thì ta mới an tâm.
- Ham quá! Lo cho thằng nhóc này trước đã.
Hai vợ chồng từ khi lưu lạc xứ người, nhờ chút bổng lộc của triều đình cấp cho nên cuộc sống tương đối cũng dễ chịu. Nay họ có thêm đứa con như ý, hạnh phúc càng tràn trề. Tuyết Hoa vốn là con gái của Thượng thư Lê Anh Tuấn, người đã bị Trịnh Giang biếm chức, đày lên Lạng Sơn đến phải uống thuốc độc tự vận.
***
Rằm tháng bảy, năm Bính Dần 1746, đời Lê Hiển Tông Cảnh Hưng năm thứ 7.
Nhân việc mỏ vàng Kim Sơn năm ngoái mang về cho quốc khố một lượng rất lớn nên quan ngoại tả Trương Phúc Loan và một số đại thần dâng biểu tâu rằng mùa lễ Vu Lan năm nay nên lập đàn cúng tế để tạ ơn trời đất, mở kho chẩn bần cũng như khuyến khích dân chúng trong nước nhớ đến mùa đại lễ báo hiếu. Võ vương đẹp ý bèn chuẩn tấu. Các triều thần đề nghị việc cúng tế nên làm ở chùa Thiên Mụ, giao cho thiền sư Minh Giác và sư đệ là Vô Danh thiền sư phụ trách. Võ vương cũng muốn gặp mặt Vô Danh thiền sư để tỏ lời ngợi khen thầy trò ông nhưng biết Vô Danh thiền sư rất ít khi chịu xuất hiện trước nơi đông người nên đã đích thân hạ chiếu, cho người mang vào tận Bích Khê để triệu thỉnh. Vô Danh thiền sư không thể từ chối đành phải theo thuyền của phủ Chúa ra Phú Xuân để cùng sư huynh lo việc đăng đàn chẩn tế.
Đại lễ Vu Lan năm đó được triều đình tổ chức trọng thể, Võ vương cho mở kho cấp phát cho những kẻ nghèo khó, bọn ăn mày khắp đất nước. Thật là một ngày hội lớn của quốc gia. Sau khi đại lễ hoàn tất, Vô Danh thiền sư định rời Phú Xuân trở về Bích Khê thì quan ngoại tả Phúc Loan đã đích thân đến gặp. Quan ngoại tả khẩn khoảng:
- Không dễ mấy khi được gặp thiền sư, nay nhân cơ hội hiếm có này dám mong thiền sư ghé đến tư gia phóng bút đề cho mấy chữ để lưu truyền lại cho con cháu đời sau. Đó là phúc ba đời của họ Trương chúng tôi vậy.
Vô Danh thiền sư thấy quan ngoại tả đích thân tìm đến năn nỉ nên không tiện từ chối. Ông nói:
- Quan ngoại tả đã nhờ, bần tăng đâu dám chối từ.
Phúc Loan mừng rỡ bèn mời thiền sư lên xe ngựa về tư dinh của mình ở mé sông Hương, cách chùa Thiên Mụ không xa. Dinh thự họ Trương mấy đời công hầu nên rất rộng lớn và tráng lệ. Trương Phúc Loan mời Vô Danh thiền sư vào nhà thờ tổ của dòng họ, bày giấy, nghiên, nhiều loại bút lên bàn xong nói:
- Cũng không dám phiền đến thiền sư nhiều, chỉ mong ngài phóng bút viết cho một chữ “Trương” thật lớn để treo vào bức vách bên trên các linh vị tổ tiên nhà chúng tôi là đủ.
Vô Danh thiền sư niệm một câu Phật hiệu rồi bước đến chọn cây bút lớn nhất, chấm mực, khoa tay phóng bút. Nét bút sinh động, vừa có thần vừa có uy. Trương Phúc Loan tuy không sành về nghệ thuật tự họa nhưng cũng biết đây là một tuyệt bút trên đời hiếm thấy nên cảm ơn rối rít:
- Đa tạ thiền sư! Họ Trương nhà tôi thật có duyên phước lớn mới được thiền sư ban cho bức tự họa này. Chúng tôi sẽ treo lên đây để cho con cháu đời đời chiêm ngưỡng.
Vô Danh thiền sư chắp tay niệm Phật hiệu nói:
- Ngài ngoại tả không nên nói quá. Giờ bần tăng xin cáo từ.
Phúc Loan vội nói:
- Cũng đúng ngọ rồi, chúng tôi đã chuẩn bị sẵn một bữa cơm chay gọi là tỏ chút lòng thành kính. Mời thiền sư thọ trai, xong tôi cho người đưa xuống thuyền sang sông cũng chưa muộn.
- Đã vậy bần đạo cũng không khách sáo.
Phúc Loan lịch sự ngồi cùng để tiếp đãi, ông nói:
- Đáng tiếc người con rể của tôi là Tôn Thất Dục hôm nay lại không có mặt ở đây, nếu không để nó tiếp thiền sư thì hay biết mấy.
- Quí hiền tế tinh thông cả cầm kỳ thi họa, là một nhân tài của đất nước. Tôi rất ái mộ ông ta.
- Cũng là nhờ phước đức tổ tiên để lại nên mới chọn được người con rể giỏi giang như thiền sư đã ngợi khen.
Buổi cơm chay xong, Phúc Loan cho người mang trà lên mời thiền sư. Phúc Loan vì có bệnh nên dùng một chén thuốc riêng, ông nói:
- Tôi không uống trà được vì đang thời kỳ dùng thuốc. Mời thiền sư dùng thử loại trà Thiết Quan Âm của Tàu này xem có thích hơn trà Thái Nguyên của mình không?
Vô Danh thiền sư bưng tách trà uống từng hớp nhỏ xong gật gù khen:
- Ngon, rất ngon. Hương thơm thanh nhã, vị đậm đà. Đúng với cái tên Thiết Quan Âm.
- Nếu thiền sư không chê, tôi xin kính một ít để thiền sư hàng ngày dâng Phật.
Nói xong Phúc Loan rót thêm trà vào tách, quay qua dặn gia nhân vào gói mấy hộp Thiết Quan Âm mang ra. Phúc Loan cung kính:
- Chút lòng hiếu kính dâng Phật, mong thiền sư nhận cho.
Vô Danh thiền sư mỉm cười:
- Đa tạ! Giờ xin cáo từ.
Phúc Loan lại nói:
- Tôi có con thiên lý mã ngày đi ngàn dặm muốn tặng thiền sư để làm phương tiện trở về cho chóng, việc gì phải đi bộ cho nhọc sức?
- A Di Đà Phật. Mọi chúng sinh đều bình đẳng. Đã là kẻ tu hành sao còn bắt ngựa phục vụ cho thân ta? Ý đẹp của ngài ngoại tả tôi xin tâm lãnh.
Phúc Loan chắp tay nói:
- Nhưng cũng phải để cho gia nhân dùng xe đưa ngài xuống bến thuyền cho trọn tình chủ khách mới được.
Phúc Loan tiễn thiền sư ra trước sân, sai người dùng xe ngựa đưa thiền sư xuống bến thuyền. Chờ cho xe đi khuất ông mới trở vào trong nhà.
Một người đàn ông từ phía sau bước lên cúi đầu cung kính nói:
- Mọi việc coi như thu xếp đã ổn rồi. Giờ hạ nhân phải trở về Bồng Sơn gấp để chuẩn bị khởi sự.
Người đàn ông đó không ai khác ngoài Trần Đại Chí. Hắn ở tù ra, lấy cớ phải tạ ơn quan Ngoại tả đã giúp đỡ nên khẩn cầu Hoàng Công Đức tiến cử cho hắn gặp mặt Trương Phúc Loan. Được Phúc Loan nhận lời, hắn bèn mang theo một ngàn lượng vàng dâng lên để tạ ơn. Phúc Loan thấy hắn có tiền, lại khéo léo bợ đỡ nên tin dùng. Từ đó, hắn thường xuyên ghé thăm ngài ngoại tả, thỉnh thoảng lại đề cập tới chuyện mỏ vàng Kim Sơn để kích động lòng tham của Phúc Loan. Phúc Loan từ lâu cũng thèm cái mỏ vàng đó lắm, ngặt nỗi Võ Trụ là người của Võ vương đặc trách bổ nhiệm nên không tiện thay thế tay chân của mình vào. Đang suy tính để tìm cách gạt tên Võ Trụ cứng đầu ra khỏi miếng mồi béo bở đó thì Trần Đại Chí lại hiến kế lên. Hắn nói mọi chuyện cứ để hắn lo, chắc chắn Võ Trụ sẽ nhanh chóng không còn là chướng ngại vật ngăn cản vàng chảy vào túi của quan ngoại tả nữa. Phúc Loan nghe nói mùi tai bèn y kế.
Từ lâu Trần Đại Chí đã rất muốn giết Võ Trụ để Hoàng Kim Môn của hắn có thể kiếm ăn trong vụ khai thác vàng này. Nhưng hắn sợ có Vô Danh thiền sư ở kế bên làm hỏng việc nên bèn nhờ Trương Phúc Loan tìm cách triệu thiền sư về Phú Xuân để ở nhà hắn tiện ra tay. Không ngờ, lực lượng trợ thủ của Diệp Sanh Ký đưa sang có một người rất sành về chất độc, hắn liền thay đổi ý định, quyết giết luôn Vô Danh thiền sư để khỏi lo hậu hoạn về sau. Do đó, trong bình trà Thiết Quan Âm lúc nãy hắn đã bỏ vào một loại độc dược không mùi không vị, lại chậm phát tán. Loại độc dược này có tên “Tam Nhật Đoạn Trường tán”, uống vào sau ba ngày thì độc sẽ bộc phát, phá nát ruột gan dẫn đến tử vong, vô phương cứu chữa.
Phúc Loan nhìn Đại Chí hỏi:
- Ngươi có chắc là loại thuốc này hiệu nghiệm như đã nói không?
- Xin ngài ngoại tả an tâm. Hạ dân xin lấy tính mạng mình bảo đảm.
- Tốt! Vậy hãy làm cho gọn gàng. Việc xong ta sẽ cho ngươi thế chỗ của Võ Trụ, rồi ráng mà coi sóc tốt mỏ vàng đó cho ta.
Đại Chí cười nịnh:
- Ngài ngoại tả cứ an mười cái tâm. Chuyện mỏ vàng, gia đình hạ nhân đã có kinh nghiệm đến bốn năm đời nay rồi. Vài tháng nữa thôi, vàng sẽ chảy đầy túi ngài ngoại tả cho mà coi. Hạ nhân xin cáo từ.
- Ừ, cứ lo cho tốt đi, ngươi không mất phần đâu. Nhưng mà mọi việc phải kín đáo và thận trọng. Thôi đi đi!
Trần Đại Chí cúi đầu chào lần nữa rồi đi thụt lui ra gần cửa mới quay người lại đi nhanh ra sau nhà. Hắn lên ngựa phi nước đại ra bến sông để sang đò về thẳng Bồng Sơn.
***
Cuối tháng bảy năm đó, một cái tin chấn động khắp Đàng Trong được mọi người xôn xao bàn tán không ngớt. Đó là hai vụ đại huyết án rùng rợn xảy ra cùng một đêm trong cảnh mưa gió bão bùng, một ở núi Bích Khê, huyện Phù Ly, phủ Quy Nhơn; một ở Liên Trì, xã Liên Chiểu, huyện Mộ Hoa, phủ Quảng Ngãi. Cả hai gia đình Võ Trụ ở Bích Khê và Trần Nguyên Hào ở Liên Trì đều bị những kẻ lạ mặt sát hại không còn một ai sống sót. Tổng cộng số người bị giết lên đến hơn ba mươi nhân mạng nhưng tất cả lại bị đốt thành than cùng với gia trang.
Ở Phú Xuân, người biết hung tin trước tiên là Trần Đại Bằng. Nhờ có phi vũ truyền thư nên chỉ một hôm sau vụ thảm sát, ông đã nhận được tin gởi ra. Đại Bằng vội vàng cùng Kim Hùng đi tìm Đoàn Phong báo tin. Đoàn Phong nghe tin giật mình kinh hoảng, vội tìm Ngô Mãnh cùng báo cho Tôn Thất Dục hay. Sau đó, cả bốn người tức tốc dùng bốn con tuấn mã đi suốt ngày đêm tới thăm hiện trường. Trưa hôm sau, họ vào đến Liên Trì. Toàn bộ nông trang bị thiêu rụi, viên tuần sát ở huyện Mộ Hoa và viên trương thừa của xã Liên Chiểu đang có mặt ở hiện trường để lấy tang chứng và làm báo cáo lên thượng cấp. Đoàn Phong đến gặp họ, viên trương thừa báo:
- Thưa ngài hộ vệ, theo lời bàn tán của dân chúng quanh đây thì chuyện xảy ra đúng vào lúc cơn mưa lớn, sấm sét đầy trời nên không một ai hay biết gì cả. Dưới đống tro tàn kia hạ chức đếm được có tất cả hai mươi ba xác chết bị thiêu, không còn nhận diện ra được ai là ai nữa.
Đoàn Phong hỏi:
- Thật chẳng một ai hay biết gì sao?
- Dạ, hạ chức có hỏi nhưng không một ai chịu nhận là có chứng kiến cảnh thảm sát đó.
Đại Bằng chen vào:
- Thế lời đồn có người nhìn thấy hai con ngựa chạy thoát về hướng núi Long Cốt kia từ đâu mà ra?
Viên Tuần sát đáp:
- Theo hạ chức nghĩ đã có người chứng kiến, nhưng vì họ sợ liên lụy nên không dám nhận.
Đoàn Phong cùng mọi người xem xét tỉ mỉ các nơi, coi lại các xác chết nhưng ngoài việc đoán ra là xác con nít, phụ nữ và đàn ông thì không còn nhận rõ ai là ai nữa. Quanh hiện trường cũng chẳng để lại dấu vết gì sau một đêm mưa to gió lớn. Ngay cả những món binh khí tìm thấy trong đống tro tàn cũng khó có thể nhận ra hình dạng ban đầu của chúng. Dường như đã có thêm vật dẫn lửa để đám cháy bùng phát mạnh hơn. Bọn hung thủ làm việc thật sạch sẽ, gọn gàng, chứng tỏ âm mưu này đã được chuẩn bị chu đáo, trù tính kỹ càng mọi mặt từ lâu.
Đoàn Phong nói với viên tuần sát và viên trương thừa:
- Nhờ hai vị tiếp tục thu thập tất cả chứng cứ, càng nhiều càng tốt. Cho người khoanh vùng và giữ nguyên hiện trường, canh giữ không cho ai được vào đây. Chúng tôi còn phải vào Bích Khê ngay hôm nay để xem tình hình vụ án trong đó thế nào. Việc mai táng xin chờ chúng tôi trở lại rồi cùng nhau thực hiện.
Viên tuần sát nói:
- Xin ngài hộ vệ an tâm, hạ chức sẽ lo chu đáo việc này.
Bốn người lại tiếp tục phóng ngựa lên đường. Khi ngang qua Bồng Sơn, Ngô Mãnh lên tiếng, giọng tức giận:
- Trong vụ này, tôi tin chắc tên Trần Đại Chí là kẻ chủ mưu chứ không ai khác. Chúng ta ghé lại bắt hắn trước rồi tìm chứng cứ sau.
Đoàn Phong ngăn:
- Dù cho đó là sự thật nhưng chúng ta không có chứng cứ rõ ràng thì làm sao buộc tội hắn? Chi bằng cứ để từ hắn, ta lần ra những kẻ đứng phía sau, trong vụ này hắn dù sao cũng chỉ là con chốt mà thôi.
Đại Bằng tán thành:
- Phong huynh nói đúng. Dù biết Đại Chí và Diệp Sanh Ký có dính líu đến vụ án Ô Long đao của Trần gia nhưng chúng ta chẳng có chứng cứ gì. Thêm vào đó vụ án nhà Võ Trụ, ai là kẻ chủ mưu phía sau, ai là người trực tiếp hành sự thì hãy còn là vấn đề cần phải tìm hiểu.
Kim Hùng chợt lên tiếng:
- Có khi nào bọn Dương Tử Tam Kiếm vì mối thù Võ Trụ chặt đứt cánh tay mà ra tay thảm sát cả nhà anh ấy không?
Đoàn Phong đáp:
- Cũng có thể, nhưng lý do đó không được xác đáng lắm.
- Vì sao?
- Thứ nhất, theo lẽ bọn Tam Kiếm phải có mặt ở Trần gia để dùng Ỷ Thiên trường kiếm đối đầu với Ô Long đao. Thứ hai, vì một cánh tay mà thảm sát toàn gia Võ Trụ thì có hơi quá đáng, dù bọn đó thật sự có khát máu đến đâu đi nữa cũng không thể làm việc này để người khác chú ý.
- Theo Phong huynh thì nguyên nhân do đâu?
- Chỉ có thể là vì mỏ vàng Kim Sơn mà Võ Trụ huynh đang làm tổng quản ở đó.
Đại Bằng lại tán thành ý kiến của Đoàn Phong nên gật gù:
- Đúng vậy, tôi cũng đã nghĩ đến điều này. Phong huynh có biết gì nhiều về mỏ vàng này không?
- Theo lời Tôn Thất Dục thúc thúc nói thì trữ lượng mỏ vàng rất lớn, dưới sự quản lý chặt chẽ của Võ Trụ huynh, chỉ trong vòng một năm mà lượng vàng nộp về quốc khố rất nhiều. Chính điều này đã mang lại tai họa cho Võ Trụ.
Ngô Mãnh hỏi:
- Vì sao?
- Vì với một món ăn béo bở như vàng mà bọn tham quan lại bị Võ Trụ bịt miệng bằng những chứng từ rõ ràng gởi đến bộ Công, bộ Hình và Võ vương hàng tháng, chúng không ăn được nên phải tìm cách triệt hạ người bịt miệng chúng.
Kim Hùng nghe Đoàn Phong phân tích thì máu nóng nổi lên đùng đùng:
- Chỉ vì mất ăn một chút vàng mà chúng lại ra tay giết hại mấy mươi mạng người à? Bọn ác nhân này đáng bằm thây ra trăm mảnh!
Đoàn Phong nói:
- Đúng vậy! Nhưng không phải một chút vàng đâu. Chúng nhẫn tâm giết nhiều người như vậy chứng tỏ số lượng vàng rất lớn. Nhưng ai là kẻ có thể thu được lượng vàng lớn ấy nếu người quản lý mỏ Kim Sơn là tay chân của họ?
Đại Bằng nói ngay:
- Chỉ có đại quan với thế lực lớn trong triều mới đủ điều kiện làm được điều này.
Ngô Mãnh la lớn:
- Vậy thì kẻ đó không ai khác ngoài Trương Phúc Loan ra!
Đoàn Phong vội chặn miệng Ngô Mãnh lại:
- Đừng la lớn! Nếu để lộ ra mình đang nghi ngờ và theo dõi họ thì họ sẽ dùng uy quyền mà tiên hạ thủ vi cường, bịt luôn bốn cái miệng nhỏ của bọn mình ngay. Chưa biết chừng còn liên lụy đến Dục thúc và nhiều người khác nữa.
Ngô Mãnh tức tối hỏi:
- Vậy phải làm sao?
- Người chết cũng đã chết rồi. Quân tử trả thù mười năm chưa muộn. Chúng ta phải nhẫn nại và khéo léo để tìm cho ra thủ phạm. Quân cờ chủ chốt là Trần Đại Chí. Từ hắn, ta có thể lần ra manh mối để tìm đáp án cuối cùng. Tuyệt đối không nên lỗ mãng hành sự mà hư chuyện.
Đại Bằng hỏi:
- Như vậy cả hai vụ án này Đại Chí đều có liên quan đến hay sao?
Đoàn Phong đáp:
- Tôi tin là như vậy. Bởi vì hai vụ án xảy ra cùng một lúc ở hai nơi cách xa nhau. Nếu họ không tập trung ở một nơi rồi cùng xuất phát thì không thể lợi dụng đúng thời điểm đêm mưa gió mà ra tay một lúc được. Nơi tập trung và xuất phát đó phải ở Bồng Sơn này mới thích hợp.
- Như vậy bọn Diệp Sanh Ký và Trương Phúc Loan có liên quan với nhau à?
- Có thể có mà cũng có thể không. Nếu có thì cũng do tên Đại Chí đứng giữa làm mắt xích liên lạc. Bảo đao và vàng là thứ mà những người kinh doanh như Diệp Sanh Ký đều ham muốn.
Đại Bằng nói:
- Sau vụ này tôi phải vào Giản Phố xem tình hình trong đó thế nào, nhân tiện giúp cho Văn Hiến và Hồng Liệt một tay.
Kim Hùng chen vào:
- Đệ cũng muốn đi!
Đại Bằng cản:
- Chú phải ở lại để tiếp tục mở rộng tầm hoạt động của Hành Khất bang và giúp Phong huynh một tay ở ngoài này. Anh vào trong đó sẽ liên lạc ra, nếu cần sẽ gửi tin cho mấy người vào cũng chưa muộn.
- Bọn trẻ ở chỗ Hồng Liệt cũng nóng ruột về tin tức của hắn và tam đệ, chúng muốn vào trong đó một chuyến. Anh có đi nên cho chúng theo một thể.
- Cũng được. Chú đưa tin cho chúng biết, trong bọn chúng ai muốn đi thì bảo vào Liên Trì gặp chúng ta. Vào Bích Khê xong, anh phải liên lạc với chú Hữu Dụng xem chừng nào họ có chuyến vào Giản Phố.
Bốn người đến trại ngựa của Võ Trụ, tình hình cũng giống như ở Trần gia. Tất cả không còn gì ngoài một đống tro tàn với gần mười lăm bộ hài cốt. Chính quyền địa phương đã cho người khoanh vùng khu trang trại và canh gác không cho ai vào. Vì đây là vụ đại huyết án nên địa phương không thể tự mình giải quyết mà phải chờ người của Hình bộ. Đoàn Phong xem xét tỉ mỉ xong thở phào nhẹ nhõm nói:
- Không thấy xác con nít, lại chỉ có một xác phụ nữ, nghe người quanh đây nói thì xác phụ nữ này có thể là chị dâu của vợ Võ Trụ huynh. Như vậy lời đồn có một con bạch mã chở một người đàn bà và một đứa trẻ chạy thoát trong đêm thảm sát là đúng. Võ Trụ huynh dù gì vẫn còn có người nối dõi. Trời Phật hãy còn thương họ Võ nên lưu lại kẻ kế thừa. Tạ ơn Phật tổ từ bi. Mối huyết thù này chắc chắn sẽ được thanh toán sòng phẳng sau này.
Đại Bằng hỏi:
- Vì đâu mà Phong huynh khẳng định như vậy?
- Tôi đã thấy qua đứa con trai của Võ Trụ. Nó như một pho tượng thần hộ pháp canh giữ ở đền chùa. Đứa trẻ như nó, lại mang thêm mối huyết hải thâm thù thì trên đời này không còn ai có thể cản ngăn được. Bọn hung thủ chắc chắn sẽ phải trả một cái giá rất đắt mai này. Dù cho kẻ đó là ai.
Kim Hùng nói:
- Được vậy thì thật tốt. Tên nó là gì?
- Võ Văn Doan.
Bốn người đang nói chuyện thì có hai con ngựa chở một già một trẻ từ trên quan lộ phóng như bay đến. Đại Bằng nhận ra người trẻ là Đỗ Trọng, còn người già chàng đoán chừng là Hữu Dụng. Đại Bằng lên tiếng:
- A, Đỗ Trọng huynh! Chúng ta gặp lại nhau rồi. Vị này có phải là chú Hữu Dụng không?
Đỗ Trọng và Hữu Dụng nhảy xuống ngựa. Đỗ Trọng đáp:
- Vâng, đây là chú Hữu Dụng. Còn đây là anh Đại Bằng, anh cả của Trương huynh.
Đại Bằng giới thiệu mọi người với nhau. Đỗ Trọng nói:
- Chú Dụng nghe hung tin của hai vụ án liền cùng tôi ra đây xem sự thể thế nào để vào Giản Phố nói lại cho Trương huynh và Đinh huynh hay, không ngờ gặp được các vị ở đây.
Đại Bằng mừng rỡ nói:
- Cháu đang có ý định xuống đầm Hải Hạc hỏi thăm chú xem khi nào thuyền vào lại Giản Phố. Cháu định quá giang vào trong đó một chuyến.
Hữu Dụng vui vẻ nói:
- Vừa hay, hai hôm nữa chúng tôi sẽ rời bến. Bằng huynh thu xếp xong mọi việc rồi chúng ta cùng đi.
- Cảm ơn chú trước. Cháu sẽ có mặt ở dưới đó đúng hẹn.
- Có tìm ra được ai là hung thủ chưa?
Đoàn Phong buồn bã đáp:
- Dạ chưa. Bọn chúng làm việc rất chu đáo, cả hai nơi đều không để lại một vết tích gì ngoài một đống tro tàn thế này đây. Cơn mưa lớn đêm đó đã giúp chúng xóa sạch mọi dấu vết.
Đỗ Trọng hỏi:
- Không có một nghi vấn nào sao?
- Có thì cũng có, nhưng chưa thể khẳng định được điều gì. Phải có thời gian tìm hiểu thêm.
Ngô Mãnh hỏi:
- Bây giờ chúng ta phải làm gì?
- Chúng ta ghé lại huyện Phù Ly để tổng kết biên bản vụ án. Sáng mai làm lễ an táng cho gia đình Võ Trụ, sau đó trở lại Liên Trì an táng cho Trần gia.
Đại Bằng như sực nhớ điều gì nên liền hỏi:
- Còn sư phụ của Võ Trụ huynh trên núi đâu? Ông ta có bị giết trong đêm đó không?
Đoàn Phong giật nảy mình:
- Đúng rồi! Sao tôi lại có thể quên thiền sư được nhỉ? Hôm rằm tháng bảy tôi và Dục thúc có gặp thiền sư ở chùa Thiên Mụ chuẩn bị đại lễ Vu Lan. Sau lễ, nghe nói thiền sư trở về Bích Khê ngay mà. Lẽ ra thiền sư phải có mặt ở đây trong đêm xảy ra vụ thảm sát mới đúng chứ. Không lẽ ngài cũng bị sát hại rồi ư?
- Thiền sư xưa kia là tay kiếm tuyệt, nổi danh đệ nhất kiếm thủ. Lẽ nào lại bị hại dễ dàng như thế? Chúng ta lên núi xem sao?
- Đúng! Chúng ta cùng đi xem sao.
Sáu người bèn phóng ngựa lên núi. Vào đến am của Vô Danh thiền sư thì thấy mọi vật đều bị phá nát nhưng không phải do có cuộc đánh nhau mà là do bàn tay con người đập phá. Đoàn Phong thở dài nói:
- Ở đây không có dấu tích của sự xô xát. Vậy là bọn hung thủ sau khi giết cả nhà Võ Trụ mới kéo lên phá nát chỗ này. Không biết thiền sư đã ở đâu, làm gì trong đêm xảy ra huyết án? Một người như ông ta làm sao có thể bị giết dễ dàng như thế được. Mà nếu không bị giết thì vì lý do gì lại không thấy xuất hiện ở đây?
Đại Bằng nói:
- Như vậy chỉ có hai cách giải thích. Một là thiền sư đã bị hại trên đường từ Phú Xuân trở về Bích Khê. Hai là ông ấy cũng bị giết trong đêm đó cùng với Võ gia.
- Nếu như vậy bọn hung thủ phải có tay đại kiếm thủ và rất có thể hắn đến từ Trung Quốc.
- Đúng vậy! Tôi đã thấy thân thủ của Võ Trụ huynh trong cuộc đấu với hai anh em họ Tư Đồ. Kiếm pháp của Võ huynh đáng liệt vào hàng tuyệt đỉnh cao thủ. Điều này cho thấy Vô Danh thiền sư còn cao siêu đến bậc nào. Chúng ta phải cẩn thận mới được.
Ngô Mãnh nổi máu anh hùng xen vào:
- Càng hay! Tôi thật sự muốn gặp một đối thủ như vậy.
Đoàn Phong nói:
- Thôi, mọi việc rồi từ từ cũng sẽ sáng tỏ. Chúng ta lên Phù Ly nghỉ ngơi ở đó đêm nay. Mai lo cho xong việc an táng của hai gia đình họ.
Sáng hôm sau, với sự trợ giúp của địa phương, ngôi mộ của Võ gia đã được lập lên ngay tại trang trại dưới chân núi Bích Khê. Dân chúng trong vùng nhớ đến ơn đức của họ Võ nên đến dự rất đông, họ than khóc như chính người thân trong gia đình họ vừa mất vậy. Bọn Đoàn Phong sáu người cũng không cầm được nước mắt khi lạy trước mộ người bạn tốt, đầy nghĩa khí của mình. Họ dùng rượu rưới xuống đất trước mộ, không ai nói lời nào nhưng trong thâm tâm, họ đã thề sẽ tìm cho ra những tên hung thủ khát máu để trả thù cho bạn. Việc xong, cả sáu người lại phóng ngựa trở lại Liên Trì để an táng cho Trần gia. Mộ lập xong, nhân dân quanh vùng đều đến tế mộ, họ khóc thương cho Trần gia bao đời nhân đức nay phải chịu nạn diệt gia vô cùng thảm thương. Vừa hay, Hiền Nhi cũng từ cửa Hàn vào Liên Trì đúng lúc mọi người đang cúng tế trước mộ phần. Đêm xuống, người dân và viên chức địa phương trở về hết chỉ còn lại bọn người của Đoàn Phong. Hữu Dụng nói:
- Chúng tôi phải trở về Quy Nhơn để thu xếp cho chuyến đi ngày mốt. Bằng huynh chuẩn bị để tối mai có mặt ở đó thì được rồi. Giờ xin cáo từ.
Đại Bằng nói:
- Cảm ơn chú và Đỗ huynh. Chúng cháu sẽ có mặt ở Quy Nhơn tối mai.
Hữu Dụng cùng Đỗ Trọng lên ngựa về Quy Nhơn. Còn lại năm người bọn Đoàn Phong ngồi trước mộ uống rượu. Ánh trăng già hắt ánh sáng nhàn nhạt soi xuống hồ sen, gió nhẹ đưa hương sen thơm ngát lan tỏa khắp vùng. Đêm ở đây thật u tịch, có ai ngờ mấy hôm trước nơi đây lại xảy ra cuộc thảm sát máu lệ rơi đầy, biến cảnh non bồng thành nơi mộ địa. Đại Bằng mắt rướm lệ nâng chung rượu lên uống cạn rồi cất tiếng ngâm:
Hồi vấn cố tri thiên lý mưu
Bàng hoàng tặc loạn một thiên vưu
Phương liên thẩm thẩm Liên Trì hận
Thanh thảo thê thê Long Cốt cừu
Phủ khốc hàn tinh xuy vạn ảnh
Ngưỡng hào oán khí phún thiên ưu
Phiêu phiêu ma ảnh uất triêm lệ
Túy thệ truy thù tế vĩ lưu.
Tạm dịch:
Ta quay về hỏi cố tri về mưu ngàn dặm
Bàng hoàng thấy giặc loạn làm mất của quý trời đất
Sen thơm gãy chìm khắp gây nên hận Liên Trì
Cỏ xanh thảm thiết in mối thù núi Long Cốt
Cúi xuống khóc, những điểm hàn tinh thổi vạn ảnh
Ngửa lên la to oán khí phun ngàn mối ưu phiền
Ma ảnh bay bay đẫm lệ tức uất
Say thề đuổi giết quân thù tế dòng tộc lớn.
Giọng ngâm chứa chan niềm bi thương, uất hận. Đoàn Phong nói:
- Tuyệt tác! Bài thơ nghe thống hận tận tâm can.
Kim Hùng tiếp lời, giọng kiên quyết:
- Tôi thề sẽ tìm cho ra tên hung thủ chính đứng sau hai vụ án này, phanh thây hắn ra trăm ngàn mảnh để trả thù cho gần bốn mươi nhân mạng của Võ gia và Trần gia.
Hiền Nhi nghe xong bài thơ không cầm được nước mắt, nàng nức nở:
- Bài thơ này Bằng huynh nên đặt cho nó một cái tên chứ?
Đại Bằng nói:
- Đặt là Liên Trì - Long Cốt hận tạm vậy!
Ngô Mãnh gằn giọng:
- Hay lắm! Mối hận ở Liên Trì và núi Long Cốt này chúng ta không trả được thề không làm người!
Cả bốn người bưng bốn chung rượu vừa rót xuống đất vừa đồng thanh nói:
- Không trả được thù thề không làm người!!!
***


Xem thêm: áo khoát nữ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét